Selene hay Mene (tiếng Hy Lạp cổ: Σελήνη) là nữ thần hiện thân cho Mặt Trăng. Bà là con gái của Titan Hyperion và Theia, đồng thời là chị gái của thần Mặt Trời Helios và nữ thần Bình Minh Eos. Selene lái cỗ xe Mặt Trăng băng qua bầu trời.
Selene có khá nhiều người tình như Zeus, Pan, và người phàm Endymion. Trong thời kỳ hậu cổ điển, Selene thường được đồng nhất với Artemis, giống như Helios được đồng nhất với Apollo. Selene và Artemis cùng có mối liên hệ với Hecate. Cả ba nữ thần đều được xem là các vị thần Mặt Trăng. Tuy nhiên, chỉ riêng Selene mới được coi là hiện thân thực sự của Mặt Trăng.
Tên của Selene trong thần thoại La Mã là Luna.
Đặc điểm
Những mô tả còn sót lại về ngoại hình và tính cách của Selene, ngoài những đặc điểm liên quan trực tiếp đến Mặt Trăng, đều rất ít ỏi. Không có bất kỳ đề cập nào về Selene trong Iliad hay Odyssey của Homer; còn trong Theogony của Hesiod, bà chỉ được nhắc đến với vai trò con gái của Hyperion và Theia, và là chị gái của Helios và Eos. Tuy vậy, bà lại là chủ đề của một trong ba mươi ba bài Homeric Hymns (Thánh ca Homeric), có đoạn mô tả sau:
And next, sweet voiced Muses, daughters of Zeus, well-skilled in song, tell of the long-winged Moon. From her immortal head a radiance is shown from heaven and embraces earth; and great is the beauty that ariseth from her shining light. The air, unlit before, glows with the light of her golden crown, and her rays beam clear, whensoever bright Selene having bathed her lovely body in the waters of Ocean, and donned her far-gleaming raiment, and yoked her strong-necked, shining team, drives on her long-maned horses at full speed, at eventime in the mid-month: then her great orbit is full and then her beams shine brightest as she increases. So she is a sure token and a sign to mortal men.
…
Hail, white-armed goddess, bright Selene, mild, bright-tressed queen!
Dịch:
Và giờ đây, hỡi những nàng Muse ngọt ngào, những ái nữ của Zeus, tinh thông khúc ca diễm lệ, hãy cất lời ngợi ca Mặt Trăng vỗ cánh dài xa. Từ đỉnh đầu bất tử của nàng, ánh sáng rực rỡ lan tỏa; từ thiên giới ôm trọn trần gian trong vòng tay huy hoàng. Bầu không khí, từng chìm trong bóng tối, nay bừng lên dưới vầng miện vàng lộng lẫy. Những tia sáng của nàng chiếu rọi thật thanh khiết. Mỗi khi Selene mỹ lệ tắm gội mình trong lòng đại dương, khoác lên tấm áo lấp lánh tựa vì sao, rồi thắng cỗ xe của mình vào đàn tuấn mã cổ kiêu hãnh, lướt đi như cơn gió mạnh mẽ khi màn đêm buông xuống giữa tháng tròn đầy.
Chính lúc ấy, nàng khoác lấy hình hài viên mãn, ánh sáng nàng chói lọi hơn muôn phần. Selene trở thành điềm báo và dấu hiệu thiêng liêng cho những phận người chốn trần gian dõi theo.
…
Kính chào nữ thần tay ngà kiều diễm, Selene rực rỡ, đoan trang, bậc mẫu nghi hiền hòa, suối tóc huy hoàng tựa ánh sao!
Hai nguồn khác cũng đề cập đến mái tóc của bà. Homeric Hymn to Helios sử dụng cùng một mỹ từ εὐπλόκαμος (“tóc óng ánh”), giống như trong Hymn to Selene (đôi khi được dịch là “tóc dày”, “tóc đẹp” hoặc “tóc mượt”). Trong khi đó, Epimenides lại gọi bà là ἠυκόμοιο (“tóc mỹ miều”).
Trong các tài liệu muộn hơn, Selene (cũng như hình tượng Mặt Trăng) thường được mô tả là có sừng. Orphic Hymn to Selene gọi bà là “Mặt Trăng mang sừng bò”, đồng thời mô tả bà là “người mang đuốc, … mang cả tính nam và nữ, … người yêu ngựa” và là đấng ban “viên mãn và ân huệ”. Empedocles, Euripides và Nonnus đều mô tả bà với từ γλαυκῶπις (glaukṓpis, “mắt sáng”), một mỹ từ dùng cho nữ thần Athena. Trong một đoạn thơ do Pamprepius sáng tác, bà được gọi là κυανῶπις (kyanṓpis, “mắt thẫm”). Mesomedes xứ Crete gọi bà là γλαυκὰ (glaukà, “bạc xám”).
Gia đình
Cha mẹ

Trong Theogony, Titan Mặt Trời Hyperion kết hôn với em gái mình là Theia và sinh ra “Helios vĩ đại, Selene trong trẻo, Eos – người tỏa sáng trên khắp trần gian và chạm đến trời cao nơi các vị thần bất tử ngự.” Homeric Hymn to Helios cũng tuân theo khái niệm này: “Hyperion kết duyên cùng Euryphaëssa rực rỡ, em gái của mình. Bà sinh ra những đứa con xinh đẹp: Eos tay hồng, Selene tóc óng ánh và Helios không biết mệt mỏi.” Euryphaëssa (“tỏa sáng khắp nơi”) có lẽ là một mỹ từ của Theia.
Tuy nhiên, Homeric Hymn to Hermes cho rằng Selene là con gái của Pallas, con trai của một Megamedes vô danh khác. Theo Theogony của Hesiod, Pallas này lại là con trai của Titan Crius, như vậy Selene là em họ của ông.
Một số nguồn khác đưa thêm những giả thuyết về cha mẹ của Selene: Euripides xem Selene là con gái của Helios (thay vì chị em ruột), một đoạn văn của Aeschylus cho biết bà là con gái của Leto. Một chú thích trong vở kịch The Phoenician Women của Euripides cũng đồng tình với giả thuyết này và thêm chi tiết Zeus là cha của Selene.
Trong Aeneid của Virgil, khi Nisus cầu khẩn Selene/Mặt Trăng, ông gọi bà là “con gái của Latona” (Leto).
Hậu duệ
Theo Homeric Hymn to Selene, nữ thần sinh cho Zeus một người con gái tên Pandia (“Toàn sáng”) với ngoại hình vô cùng xinh đẹp giữa các vị thần bất tử. Nhà thơ Hy Lạp Alcman thế kỷ VII TCN cho rằng Ersa (“Sương”) là con gái của Selene và Zeus. Ngoài ra, Selene và Zeus còn là cha mẹ của Nemea, nữ thần bảo trợ vùng Nemea – nơi Heracles giết Sư tử Nemea và là địa điểm tổ chức Thế vận hội Nemea.
Theo Pausanias, Selene có đến năm mươi người con gái với người tình Endymion, tượng trưng cho năm mươi tháng âm lịch trong một kỳ Olympiad. Nonnus kể rằng Selene và Endymion là cha mẹ của chàng trai Narcissus lãng tử, mặc dù trong những truyền thuyết khác, bao gồm Metamorphoses của Ovid, Narcissus là con của thần Sông Cephissus và sơn nữ (nymph) Liriope.
Quintus Smyrnaeus cho biết Selene cùng với anh trai mình – Helios – sinh ra các Horae, những nữ thần đại diện cho bốn mùa xuân hạ thu đông. Quintus mô tả họ là bốn thị nữ của Hera, nhưng hầu hết các phiên bản khác đều nói rằng số lượng Horae là ba: Eirene (“Hòa bình”), Eunomia (“Trật tự”) và Dike (“Công lý”). Cha mẹ của họ là Zeus và Themis.
Theo lời của Philochorus, Selene là mẹ của nhà thơ huyền thoại Musaeus, có cha là nhà tiên tri huyền thoại Eumolpus.
Thần thoại
Nữ thần Mặt Trăng
Giống như người anh trai – thần Mặt Trời Helios điều khiển cỗ xe rực lửa băng ngang bầu trời mỗi ngày, Selene lái một cỗ xe xuyên qua thiên giới. Không có bất kỳ thông tin nào về cỗ xe của Selene trong tác phẩm của Homer hay Hesiod, nhưng Homeric Hymn to Selene mô tả:
The air, unlit before, glows with the light of her golden crown, and her rays beam clear, whensoever bright Selene having bathed her lovely body in the waters of Ocean, and donned her far-gleaming raiment, and yoked her strong-necked, shining team, drives on her long-maned horses at full speed, at eventime in the mid-month: then her great orbit is full and then her beams shine brightest as she increases. So she is a sure token and a sign to mortal men.
Bầu không gian từng chìm trong tăm tối nay bừng sáng dưới ánh vương miện rực rỡ của nàng, những tia sáng thanh khiết tỏa lan mỗi khi Selene diễm lệ gột rửa thân ngà trong lòng đại dương, khoác lên mình tấm áo huy hoàng lấp lánh, rồi thắng cỗ xe vào đàn tuấn mã cổ kiêu hùng, lướt đi trong đêm tối giữa tháng tròn đầy. Khi ấy, nàng viên mãn trong vầng quang rực rỡ, tỏa sáng huy hoàng hơn bao giờ hết, trở thành dấu hiệu thiêng liêng, làm tín vật chỉ lối cho nhân gian.
Bức họa sớm nhất vẽ về Selene xuất hiện ở mặt trong của một chiếc cốc từ đầu thế kỷ V TCN, có vẻ là tác phẩm của họa sĩ Brygos. Ông khắc họa cảnh Selene ngồi trên cỗ xe, được kéo bởi hai con ngựa có cánh, đang lao xuống biển. Nhà địa lý học Pausanias từng nhắc đến một bức phù điêu trên bệ của tượng thần Zeus tại Olympia (khoảng năm 435 TCN), mô tả Selene đang điều khiển một con ngựa hoặc con la.
Trong khi phương tiện của Helios có bốn con ngựa, cỗ xe của Selene chỉ có hai con, được Ovid miêu tả là “trắng như tuyết”. Trong một số ghi chép muộn hơn, chiếc xe này thậm chí được kéo bởi bò hoặc trâu và làm bằng bạc, nhưng Pindar cho rằng nó có màu vàng rực rỡ.
Trong thời kỳ cổ xưa, người ta tin hiện tượng nguyệt thực xảy ra là do phù thủy, đặc biệt những phù thủy xứ Thessaly, thích dùng phép thuật và thần chú để kéo Mặt Trăng (Selene) đi khỏi bầu trời. Những tài liệu đầu tiên cho biết phép thuật này với thuật ngữ kathaireĩn (καθαιρεῖν). Cả nhật thực lẫn nguyệt thực đều được người Hy Lạp gọi chung là kathaireseis (“sự giáng hạ”).

Một ví dụ nổi tiếng là Aglaonice xứ Thessaly, một nhà thiên văn học Hy Lạp cổ đại thường bị xem là phù thủy vì khả năng (tự xưng) của bà trong việc làm cho Mặt Trăng biến mất khỏi bầu trời (καθαιρεῖν τὴν σελήνην – kathaireĩn tén selénen). Plutarch là người đầu tiên ghi chép về bà và các nhà thiên văn học sau đó đã dựa trên Plutarch để suy đoán bà có thể biết cách dự đoán thời điểm và khu vực xảy ra nguyệt thực.
Người dân tin những ai kéo Mặt Trăng xuống sẽ mang lại điềm xấu cho bản thân. Tục ngữ Hy Lạp cổ có câu: ἐπὶ σαυτῷ τὴν σελήνην καθαιρεῖς (“ngươi đang tự kéo Mặt Trăng xuống chính mình”), ám chỉ những người tự gây họa cho bản thân. Để tránh số phận này, một số phù thủy đã hiến tế con cái hoặc chính đôi mắt của họ.
Trong tín ngưỡng dân gian, Selene – với tư cách nữ thần Mặt Trăng – gắn liền với sự phát triển thể chất, chu kỳ kinh nguyệt và bệnh tật, đặc biệt trong bối cảnh bị quỷ ám hoặc mắc chứng động kinh. Do vai trò của bà trong màn đêm, Selene đôi khi được gọi là Nyctimedusa (Νυκτιμέδουσα), nghĩa là “Nữ Hoàng của Bóng Tối”.
Endymion
Selene nổi tiếng nhất với câu chuyện tình yêu cùng chàng trai trần gian tuấn tú Endymion. Nhà thơ Sappho vào cuối thế kỷ thứ 7 – đầu thế kỷ thứ 6 TCN đã đề cập đến Selene và Endymion. Tuy vậy, câu chuyện đầu tiên hoàn chỉnh về họ xuất hiện trong Argonautica (thế kỷ thứ 3 TCN) của Apollonius xứ Rhodes, kể về “niềm khát khao tình yêu điên cuồng” của Selene và hai người thường xuyên gặp gỡ trong một hang động trên núi Latmus:
And the Titanian goddess, the moon, rising from a far land, beheld her [Medea] as she fled distraught, and fiercely exulted over her, and thus spake to her own heart:
“Not I alone then stray to the Latmian cave, nor do I alone burn with love for fair Endymion; oft times with thoughts of love have I been driven away by thy crafty spells, in order that in the darkness of night thou mightest work thy sorcery at ease, even the deeds dear to thee. And now thou thyself too hast part in a like mad passion; and some god of affliction has given thee Jason to be thy grievous woe. Well, go on, and steel thy heart, wise though thou be, to take up thy burden of pain, fraught with many sighs.”
Dịch:
Và nữ thần Titan, vầng nguyệt huy hoàng, từ miền xa thẳm trỗi dậy, nhìn xuống nàng [Medea] đang trốn chạy trong cơn mê loạn, rồi hân hoan đắc thắng mà thầm nhủ:
“Vậy là chẳng riêng ta lang thang đến hang động Latmos, cũng chẳng riêng ta thiêu đốt vì tình yêu dành cho Endymion tuấn mỹ; bao lần ta bị xua đi bởi những phù phép xảo quyệt của ngươi, để trong màn đêm thăm thẳm, ngươi ung dung thi triển ma thuật, những phép thuật ngươi hằng yêu thích. Và nay, chính ngươi cũng sa vào cơn mê cuồng tương tự; một vị thần khổ ải nào đó đã đặt Jason vào đời ngươi như một niềm thống khổ triền miên. Vậy thì cứ bước tiếp đi, dù ngươi có khôn ngoan đến đâu, hãy sẵn lòng gánh lấy nỗi đau này, một nỗi đau trĩu nặng cùng bao tiếng thở than.”

Endymion với giấc ngủ vĩnh cửu đã trở thành một hình tượng quen thuộc nhưng chính xác thì giấc ngủ bất tận ấy bắt đầu như thế nào và Selene có vai trò gì trong đó vẫn còn mơ hồ. Theo Catalogue of Women, Endymion là con trai của Aethlius (hậu duệ của Zeus). Anh được Zeus ban cho quyền tự quyết định thời điểm qua đời.
Theo Epimenides, Endymion vô ý phải lòng nữ thần Hera nên Zeus mới trừng phạt anh như thế. Về phía Apollodorus, vì Endymion sở hữu vẻ đẹp vô song, Mặt Trăng đã đem lòng yêu anh nên Zeus cho phép anh lựa chọn số phận và anh đã chọn một giấc ngủ bất tận, bất tử, mãi mãi không già đi. Nhà thơ Theocritus mô tả giấc ngủ của Endymion là điều đáng ghen tị, có lẽ vì tình yêu của Selene dành cho anh. Cicero dường như xem Selene là người khiến Endymion ngủ say để bà có thể hôn anh bất cứ lúc nào. Nhà viết kịch La Mã Seneca còn kể rằng Selene do quá yêu Endymion mà từ bỏ bầu trời đêm, giao lại cỗ xe mặt trăng sáng chói của mình cho anh trai Helios.
Nhà văn trào phúng Hy Lạp Lucian có viết một cuộc đối thoại giữa Selene và nữ thần tình yêu Aphrodite, nơi họ than thở về chuyện tình của mình – Selene với Endymion và Aphrodite với Adonis. Ông đồng thời gợi ý tình yêu của Selene dành cho Endymion chớm nở từ khi bà ngắm nhìn anh ngủ mỗi đêm. Trong cuộc đối thoại khác giữa Aphrodite và Eros, nữ thần Tình Yêu trách móc Eros vì đã kéo Selene “rơi xuống từ bầu trời”. Nhà thơ Quintus Smyrnaeus cũng nhắc đến việc Selene quan sát Endymion lúc anh đang say ngủ trong hang động bên cạnh đàn gia súc:
Divine Selene watched him from on high, and slid from heaven to earth; for passionate love drew down the immortal stainless Queen of Night.
Nữ thần Selene dõi theo chàng từ chốn cao xanh,,
rồi nhẹ lướt từ thiên giới xuống trần gian;
vì ái tình nồng cháy đã kéo xuống trần
bóng Nguyệt Nữ thanh khiết, vĩnh hằng.
Có một huyền thoại ít được biết đến kể về một thiếu nữ xinh đẹp tên Muia, là tình địch của Selene trong việc tranh giành tình yêu của Endymion. Cô gái lắm lời này liên tục trò chuyện khi anh đang ngủ khiến anh phải thức giấc. Endymion vô cùng khó chịu và Selene thì nổi giận. Bà biến Muia thành một con ruồi (muía trong tiếng Hy Lạp). Từ đó, loài ruồi vẫn luôn làm phiền những người đang ngủ, gợi về câu chuyện của Muia và Endymion tuấn tú.
Nhà ngôn ngữ học Max Müller, khi phân tích thần thoại Selene và Endymion dưới góc nhìn huyền thoại mặt trời (solar mythology), cho rằng câu chuyện này thực chất là một cách hình tượng hóa các thuật ngữ ngôn ngữ học. Trong tiếng Hy Lạp, từ endyein có nghĩa là “lặn xuống”, vì vậy cái tên Endymion (“Người thợ lặn”) ban đầu chỉ đơn thuần mô tả quá trình mặt trời lặn xuống biển. Theo cách hiểu này, câu chuyện Selene ôm lấy Endymion – hay Mặt Trăng ôm lấy Người thợ lặn – thực chất ám chỉ sự kiện mặt trời lặn và mọc lên.
Gigantomachy
Gaia, tức giận vì các con của bà – những Titan – bị ném xuống Tartarus sau Titanomachy, đã sinh ra những Gigantes (Những Gã Khổng Lồ) để tấn công các vị thần. Cuộc chiến này được gọi là Gigantomachy.
Gaia đã nghe được lời tiên tri về một người phàm sẽ giúp các vị thần đánh bại lũ khổng lồ nên bà chạy khắp thế gian tìm kiếm loại thảo dược khiến con bà bất khả chiến bại. Zeus biết được điều đó và lập tức ra lệnh cho Selene, cùng hai anh chị em của bà là Helios (Mặt Trời) và Eos (Bình Minh), ngừng tỏa sáng để Zeus có thể thu hoạch toàn bộ giống cây trước Gaia.
Sự tham gia của Selene trong trận chiến được chứng minh qua bức phù điêu Gigantomachy tại Bàn thờ Pergamon, mô tả cảnh bà chiến đấu chống lại các Gigantes bên cạnh Helios, Eos và mẹ của họ – nữ thần Theia – trong dãy phù điêu phía nam. Selene khi đó đang cưỡi ngựa nghiêng sang một bên, mặc một chiếc áo len bên trong và choàng một chiếc áo khoác.

Ngoài ra, một ghi chú hướng dẫn dây cương của một cỗ xe xuất hiện hình ảnh nữ thần được cho là Selene, với một vầng trăng lưỡi liềm trên đầu và một tấm mạng che mặt. Bà đứng bên cạnh Helios trên một cổng thành, cố gắng đẩy lùi những đợt tấn công của các Gigantes có đôi chân hình rắn.
Chiến đấu với Typhon
Theo ghi chép muộn của Nonnus, trong trận chiến, con quái vật khổng lồ Typhon đã nhắm đến Selene và ném những con bò mộng về phía bà. Dù vậy, Selene vẫn giữ vững quỹ đạo khiến Typhon rít lên, lao đến bà như một con rắn độc.
Selene dũng cảm đối đầu với gã khổng lồ, giao chiến với hắn như những cặp sừng đang khóa chặt vào nhau. Sau chiến tranh, bà mang trên mình vô số vết sẹo trên mặt trăng, như dấu tích của cuộc giao đấu dữ dội giữa hai bên.
Ampelus
Ampelus là một satyr (sinh vật nửa người nửa dê) vô cùng điển trai, được thần Dionysus yêu thương say đắm. Một ngày nọ, Ampelus cưỡi trên lưng một con bò mộng và tự so sánh mình với Selene, cho rằng anh ngang hàng với nữ thần vì cũng có sừng và cưỡi bò giống như bà.
Lời nói ngạo mạn ấy đã khiến Selene nổi giận. Bà liền sai một con ruồi trâu đến chích con bò của Ampelus. Con bò hoảng loạn, hất văng anh xuống đất và húc anh đến chết.
Heracles
Khi Zeus mong muốn ngủ với nữ hoàng phàm trần Alcmene để sinh ra Heracles, ngài đã kéo dài đêm tối thành ba ngày, đồng thời ra lệnh cho Selene, thông qua Hermes, chỉ được di chuyển chậm rãi trên bầu trời trong suốt khoảng thời gian đó.
Selene cũng có một vai trò nhỏ ở nhiệm vụ đầu tiên trong Mười Hai Kỳ Công Vĩ Đại của Heracles. Trong khi Hesiod cho rằng sư tử Nemea là con của Orthrus và Chimera (hoặc có thể là Echidna) và được Hera nuôi dưỡng, một số nguồn khác kể rằng Selene có liên quan đến sự ra đời hoặc quá trình nuôi dưỡng nó.
Aelian viết: “Người ta nói rằng sư tử Nemea rơi xuống từ mặt trăng”, đồng thời trích dẫn Epimenides:
For I am sprung from fair-tressed Selene the Moon, who in a fearful shudder shook off the savage lion in Nemea, and brought him forth at the bidding of Queen Hera.
Vì ta sinh ra từ Selene tóc mây kiều diễm, nữ thần Mặt Trăng,
người đã run rẩy kinh hoàng mà hất tung mãnh sư Nemea,
rồi phó mặc nó ra đời theo lệnh của Nữ vương Hera.
Anaxagoras cũng ghi nhận một truyền thuyết tương tự về việc sư tử Nemea rơi xuống từ mặt trăng.
Trong tác phẩm On Rivers của Pseudo-Plutarch, Hera đã hợp tác với Selene, sử dụng những câu thần chú ma thuật để tạo ra sư tử Nemea từ một chiếc rương đầy bọt biển. Còn Hyginus lại phát biểu Selene đã nuôi dưỡng con sư tử trong một hang động có hai cửa.
Pan
Theo Virgil, Selene cũng có giai đoạn yêu đương với Pan, vị thần hoang dã và người bảo hộ của những kẻ chăn cừu. Ông đã quyến rũ bà bằng một món quà trắng muốt làm từ lông cừu. Các chú giải về Virgil bổ sung rằng, theo Nicander, trong màn quyến rũ này, Pan quấn mình trong một tấm da cừu để thu hút sự chú ý của Selene.
Tác phẩm khác
- Diodorus Siculus ghi chép một phiên bản khác thường của thần thoại, trong đó Basileia, người kế vị Uranus, kết hôn với anh trai Hyperion và có hai người con là Helios (Mặt trời) và Selene (Mặt trăng). Vì ghen tị và lo sợ Hyperion sẽ giành được quyền lực, các anh em khác của Basileia lập mưu phản, giết Hyperion và dìm Helios xuống sông Eridanus. Selene, khi phát hiện ra thảm kịch, đã tự kết liễu đời mình. Sau khi chết, Helios hiện về trong giấc mơ của mẹ họ, an ủi bà rằng cả hai đã trở thành những thực thể thần thánh và ngọn lửa thiêng trên bầu trời từ nay sẽ được gọi là Helius (Mặt trời), còn thứ trước đây được gọi là “menê” sẽ được biết đến với cái tên Selene (Mặt trăng).
- Plutarch ghi lại một câu chuyện mang tính ngụ ngôn, trong đó Selene yêu cầu mẹ dệt cho bà một bộ y phục vừa vặn. Người mẹ đáp điều đó là không thể vì bà liên tục thay đổi kích thước – khi thì tròn đầy, lúc lại khuyết dần, có hôm chỉ còn một nửa.
- Trong tác phẩm Icaromenippus của Lucian, Selene than phiền với Menippus về những điều vô lý mà các triết gia nói về bà như tại sao lúc thì tròn, lúc thì khuyết, liệu trên bà có sự sống không, hay việc bà chỉ phản chiếu ánh sáng từ Mặt trời, gây ra mâu thuẫn giữa bà và anh trai. Selene yêu cầu Menippus trình bày những lời phàn nàn của nàng với Zeus, mong Zeus quét sạch những tên triết gia này khỏi mặt đất. Zeus đồng ý vì ông cũng đã có ý định xử lý họ từ lâu.
- Claudian viết thuở nhỏ, lúc chưa mọc sừng trăng, Selene và Helios (không nhắc đến Eos) được người dì, nữ thần nước Tethys, nuôi dưỡng.
- Theo Pseudo-Plutarch, Lilaeus là một người chăn cừu Ấn Độ, chỉ thờ phụng Selene và thực hiện các nghi lễ của bà vào ban đêm. Các vị thần khác tức giận, liền sai hai con sư tử đến xé xác anh ta. Thương xót, Selene biến Lilaeus thành núi Lilaeon.
- Ovid kể lại trong thần thoại về Phaethon – con trai của Helios, người đã lái cỗ xe của cha mình trong một ngày, Selene từ trên trời nhìn xuống và kinh ngạc khi thấy những con ngựa của anh trai nàng lao xuống thấp hơn bình thường.
